Thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương khóa XIII của Đảng

Quán triệt chủ trương "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Xiii của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, trong đó có chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bài viết trình bày một số nội dung cơ bản cũng như đề xuất các nhiệm vụ góp phần quán triệt chủ trương nêu trên theo tinh thần nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ Xiii của Đảng trong thời gian tới.

1. Bối cảnh ra đời và quá trình phát triển chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của đảng Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, một trong những nội dung được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh, đó là tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức thực hiện cho thấy, quyền làm chủ của nhân dân chưa thực sự được tôn trọng, đời sống không được bảo đảm, việc huy động sự đóng góp và sức dân vẫn còn nặng bằng mệnh lệnh hành chính nặng, coi nhẹ bồi dưỡng sức dân. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, “xin - cho” làm hạn chế tính tích cực, năng động, sáng tạo vốn có của người dân... Thực tế đó đã hạn chế quyền làm chủ trực tiếp của người dân, làm phát sinh sự bức xúc trong đời sống xã hội, làm cho niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước bị giảm sút. 
 
    Ngày 28/11/1984, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) đã ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW “Về tăng cường công tác quần chúng của Đảng”. Trong Chỉ thị nhấn mạnh nội dung: “Phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện tốt khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trong trong sản xuất, phân phối cũng như trong tất cả các công tác quan hệ trực tiếp đến quần chúng”. Có thể nói, lần đầu tiên khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được Đảng ta chính thức đề ra, trở thành một chủ trương lớn, một phương châm hành động cụ thể.
 
    Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, thông báo của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; vận dụng quan điểm lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và từ kết quả các cuộc nghiên cứu, khảo sát thực tiễn của các tổ công tác, ngày 18/02/1998, thay mặt Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã ký ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Chỉ thị nhấn mạnh: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”(1). Nội dung chính của Quy chế dân chủ ở cơ sở đều xoay quanh bốn khâu liên quan đến dân chủ: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Ngày 12/02/2000 và ngày 03/3/2000, Bộ Chính trị đã có Công văn số 412-CV/TW và Công văn số 413-CV/TW chỉ đạo ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tiến hành kiểm tra việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; đã cử 12 đoàn đi kiểm tra ở 17 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 03 bộ, 03 Tổng công ty nhà nước. Ngày 22/6/2000, Bộ Chính trị ban hành Thông báo số 304-TB/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Ngày 04-05/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) tổ chức Hội nghị toàn quốc sơ kết việc thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị giai đoạn 1998-2001. Ngay sau Hội nghị, ngày 28/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. 
 
    Vào các ngày 28-29/9/2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 06 năm thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị. Ngày 15/11/2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) có Thông báo số 159-TB/TW “Kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Ngày 04/3/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII). Tháng 02/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) đã tổ chức Hội nghị toàn quốc Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII). Ngày 07/01/2016, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Kết luận số 120-KL/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”... Ngày 18/7/2018, Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có Báo cáo Kết quả thực hiện Kết luận số 120-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI). Đến Đại hội XIII, căn cứ vào tình hình thực tiễn và xu thế mở rộng dân chủ, Đảng ta đã bổ sung hai khâu công việc trong phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
 
    Như vậy, kể từ khi Chỉ thị số 53-CT/TW “Về tăng cường công tác quần chúng của Đảng” được ban hành, và tiếp đó là việc đề ra chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, cho đến Đại hội Đảng lần thứ XIII với khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, trải qua một chặng đường 37 năm với 09 nhiệm kỳ Đại hội Đảng đã cho thấy: Đảng ta luôn thể hiện sự quan tâm đặc biệt, chủ trương nhất quán và xuyên suốt, đồng thời, với việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, đổi mới và hoàn thiện thể chế đối với việc xác lập và đảm bảo dân chủ cơ sở, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân.
 
    2. Thực trạng triển khai chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của đảng Cùng với việc từng bước xây dựng và kiện toàn chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng dân chủ cơ sở thì công tác kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm để góp phần tăng cường thực chất và hiệu quả công tác tổ chức thực hiện chủ trương xây dựng dân chủ cơ sở cũng được các cấp ủy và tổ chức đảng đặc biệt quan tâm. Sau 06 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và hơn 02 năm thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX), trong các ngày 28-29/9/2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã tổ chức Hội nghị toàn quốc Tổng kết 06 năm thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị. Tháng 02/2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) đã tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII)(2). Báo cáo của Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở Trung ương tiếp tục khẳng định những kết quả nổi bật, chuyển biến tích cực trong các loại hình cơ sở giai đoạn 2004-2010. Do một số nguyên nhân, từ năm 2010 đến năm 2016, Bộ Chính trị, Ban Bí thư không tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết hay có văn bản chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị, tuy nhiên, công tác dân chủ cơ sở vẫn luôn được đặc biệt quan tâm. Ngày 07/01/2016, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 120-KL/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Kết luận tiếp tục khẳng định những kết quả đạt được trong việc thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, trong đó, “phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” từng bước đã được thể chế hóa và đi vào cuộc sống, đạt được kết quả toàn diện. Ngày 18/7/2018, Ban Chỉ đạo Trung ương thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có Báo cáo kết quả thực hiện Kết luận số 120-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI).
 
    Có thể khẳng định là: Trải qua một chặng đường hơn ba thập kỷ kể từ khi chủ trương dân chủ của Đảng được thể chế hóa trong Chỉ thị số 53-CT/TW, với việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã trở thành “khâu đột phá” về dân chủ cơ sở. “Chỉ thị số 30-CT/TW đã được triển khai sâu rộng, từng bước vững chắc và thực sự đi vào cuộc sống đạt kết quả khá toàn diện. Các chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng, cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ cơ sở được xây dựng, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển và yêu cầu của đất nước. Chế độ dân chủ đại diện được phát huy; chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, HĐND và UBND các cấp ngày càng được nâng cao; cải cách hành chính đạt nhiều kết quả tích cực. Dân chủ trực tiếp ở cơ sở được mở rộng, nhân dân được bàn và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình; quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân được bảo vệ. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” từng bước đã được thể chế hóa và đi vào cuộc sống. Công tác tuyên truyền, giáo dục có trọng tâm, trọng điểm; công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được chú trọng và đạt nhiều kết quả tốt. Quá trình thực hiện Chỉ thị đã góp phần xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh”(3).
 
    Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được đồng thời việc thực thực hiện chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” nói chung, quá trình thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW nói riêng còn một số hạn chế, yếu kém. Cụ thể là: Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chỉ thị chưa thực sự thường xuyên. Công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị thời gian gần đây chưa được chú trọng. Một số văn bản pháp luật liên quan đến dân chủ ở cơ sở chậm được xây dựng và hoàn thiện. Dân chủ chưa thực sự đi đôi với giữ gìn trật tự, kỷ cương. Có nơi vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức; ý kiến của nhân dân chưa thực sự được lắng nghe; quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm. Còn tình trạng lợi dụng dân chủ, gây mất an ninh, trật tự, gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ. Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân nhiều nơi chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở chưa đồng đều ở các khu vực, loại hình cơ sở.
 
    Nhiều doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các cơ sở dịch vụ, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập… chưa xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém trên được Đảng chỉ ra đó là: Do nhận thức và trách nhiệm về thực hiện dân chủ ở cơ sở của một số cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp ở một số nơi chưa quan tâm đến việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Có nơi buông lỏng vai trò lãnh đạo, thiếu kiểm tra, đôn đốc thực hiện. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” chưa được cụ thể hóa. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân ở một số nơi chưa thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội; chưa phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thực sự gương mẫu, chưa làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao(4).
 
    Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân tồn tại, yếu kém trong công tác thực hiện dân chủ cơ sở, rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau: (1) Coi trọng thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở thành các quy định của pháp luật; (2) Thực hiện dân chủ phải được cụ thể hóa, xây dựng các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ, minh bạch trong các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của nhân dân và thường xảy ra tham nhũng, tiêu cực; (3) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước; đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức; (4) Xử lý nghiêm minh đối với các vụ, việc tham nhũng, tiêu cực; (5) Tăng cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với người dân; (6) Đổi mới và nâng cao chất lượng các hình thức lấy ý kiến của nhân dân.
 
    3. Quán triệt chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” theo tinh thần nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của đảng Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
 
    Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu(5). Đây là một điểm mới, là thông điệp ngắn gọn của Đảng ta về “dân” tại Đại hội XIII của Đảng. Cùng với các giá trị cốt lõi là “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được Nghị quyết Đại hội XIII tiếp tục khẳng định thì chủ trương thực hiện dân chủ cơ sở lần này được bổ sung thêm những giá trị mới, hết sức quan trọng đó là: “Dân giám sát” và “Dân thụ hưởng”. “Dân kiểm tra”, “dân giám sát”. Trong thực tế thì khó phân biệt rõ ràng, rành mạch giữa hoạt động kiểm tra với hoạt động giám sát. Ngay trong Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) có đề cập cả khâu kiểm tra và khâu giám sát. Tuy nhiên, Chỉ thị của Đảng, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các nghị định của Chính phủ cũng chưa xác định rõ lúc nào, việc gì thì kiểm tra, việc gì thì giám sát. Giám sát có phạm vi rộng bao gồm chủ thể quản lý giám sát việc làm của khách thể quản lý trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị. Kiểm tra có phạm vi hẹp hơn chỉ diễn ra quá trình chủ thể quản lý xem xét việc làm của chủ thể quản lý và tự kiểm tra trong nội bộ, trong bản thân mỗi người theo một cơ chế, quy định nhất định.
 
    Như vậy, khi thực hiện “dân kiểm tra” không chỉ xem xét việc thể chế vấn đề dân trực tiếp giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương, cán bộ, công chức, viên chức... mà phải xem xét một cách đồng bộ cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra hệ thống chính trị, xã hội. Do còn có những bật cập như đã kể trên, trong thời gian qua, việc “kiểm tra” của người dân gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do xác định nội hàm, nội dung kiểm tra của dân bị hạn chế, bó hẹp. Chính vì thế, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung khâu công việc “dân giám sát” vào phương châm để tạo thuận lợi cũng như có cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện.
 
    Về khái niệm “Dân thụ hưởng”, mặc dù trong thực tế cuộc sống của dân ta từ khi có sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong suốt 35 năm đổi mới đất nước, người dân nước ta đã được thụ hưởng hầu như tất cả những thành quả của cách mạng đưa lại theo quan điểm của Bác Hồ: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân” (Hồ Chí Minh). Hưởng thụ cả những thành quả về vật chất đến những thành quả về chính trị và đời sống tinh thần, trước hết là “quyền được sống, quyền tự do”, “quyền mưu cầu hạnh phúc”, gắn liền với quá trình mở rộng, tăng cường, phát huy dân chủ. Với sự bổ sung này thể hiện sự công nhận quy luật của động lực lợi ích, cũng chính là động lực mạnh mẽ để mỗi người dân nỗ lực phấn đấu cho lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Khái niệm “dân thụ hưởng” liên quan đến quyền lợi chính đáng của người dân. Và điều này đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị cũng như sự mở rộng và bảo đảm tính thực chất của cơ chế dân chủ cơ sở.
 
    Để quán triệt chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng như đã nêu trên, cần phải thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
 
    Thứ nhất, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, các ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu, học tập, quán triệt sâu sắc chủ trương dân chủ trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... của Đảng, để vận dụng vào cơ quan, đơn vị, tổ chức, địa phương, cơ sở mình. Tiếp tục nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, tinh thần trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về dân chủ và thực hành dân chủ. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, thực hiện quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ cũng như các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, thông báo, kết luận của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân chủ nói chung và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói riêng. Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phổ biến phương châm dân chủ của Đảng cho phù hợp cơ sở mình trong tình hình mới hiện nay.
 
    Thứ hai, trong nhiều nghị quyết, chỉ thị, thông báo, kết luận của mình, Đảng ta nhiều lần nhắc đi, nhắc lại nhiệm vụ tiếp tục thể chế hóa phương châm dân chủ của Đảng và các quyền con người quy định trong Hiến pháp. Hiện nay, ngoài Pháp lệnh số 34 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, còn lại là các nghị định của Chính phủ xây dựng và thực hiện dân chủ trong các loại hình cơ sở. Tính ổn định và giá trị pháp lý của các nghị định không cao. Năm 2021 là năm đầu tiên Quốc hội khóa XV triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó có việc xây dựng các luật, pháp lệnh. Trong quá trình nghiên cứu, học tập, xây dựng chương trình hành động toàn khóa XV, nên chăng tính đến việc xây dựng Luật Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó có việc nâng cấp Pháp lệnh và các nghị định của Chính phủ về dân chủ trong tất cả các loại hình cơ sở.
 
    Thứ ba, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản liên quan đến việc cụ thể hóa các khâu trong phương châm dân chủ của Đảng đề ra trong Đại hội XIII, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Mọi chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng phải được thể chế hóa thông qua chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác dân vận của các cấp chính quyền, trước hết là các chế độ, chính sách phải vì lợi ích, nguyện vọng của người dân, sự hài lòng về hiệu quả công việc, thái độ, chất lượng phục vụ của các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền, sự gương mẫu của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu, là cực kỳ quan trọng trong việc tăng cường, củng cố lòng tin với Đảng, Nhà nước ta. Một trong những công việc góp phần thể chế hóa phương châm của Đảng là cán bộ lãnh đạo các cấp chính quyền, người đứng đầu trực tiếp tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo chất lượng công việc.
 
    Thứ tư, Đảng ta là đảng cầm quyền. “Đảng ta thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ”. Trong thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, giám sát”, hiện nay, người dân chưa “được biết” nhiều, biết rõ về “người lãnh đạo”, “người đầy tớ, công bộc” của mình. Do đó, cần có cơ chế công khai, minh bạch công tác nhân sự của các cấp ủy, tổ chức đảng, có cơ chế, quy định để quần chúng, người dân giám sát, đóng góp, xây dựng cán bộ, trong đó có người đứng đầu, trước hết ở nơi công tác và nơi cư trú. Đảng cần thể chế hóa nguyên tắc “Dựa vào dân để xây dựng Đảng” đã đề ra từ lâu nhưng chưa được thực hiện. Thực hiện tốt và tháo gỡ một số “điểm nghẽn” này là góp phần thể chế hóa phương châm của Đảng.
 
    Thứ năm, thể chế hóa bằng pháp luật, các chủ trương được quy định trong Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội” và Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Một số chỉ thị, quyết định, quy chế, quy định, kết luận, thông báo... của Bộ Chính trị, Ban Bí thư liên quan mối quan hệ giữa Đảng - Dân như: Về kê khai tài sản, về nêu gương của cán bộ, đảng viên; về người đứng đầu cấp ủy tiếp và đối thoại với dân; về những điều đảng viên không được làm; Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân; Quy định đảng viên sinh hoạt hai chiều; v.v… cần được kiểm tra, rà soát, rút kinh nghiệm...
    (1) Ban Dân vận Trung ương Đảng: Một số văn kiện của Đảng về công tác dân vận thời kỳ đổi mới (1986-2011),
Nxb Lao động, 2011, tr.157.
    (2) Vũ Lân: Hội nghị Tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) “Về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, số 3/2010, tr.10.
    (3) Nguồn: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/ket-luan-so-120-kltwngay-07012016-cua-bo-chinh-tri-ve-tiep-tuc-day-manh-nang-cao-chat-luong-hieu-qua-viec-xay-dung-va-1638
    (4) Nguồn đã dẫn.
    (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, t.1, tr.27-28.
Vũ Lân/noichinh.vn