Theo gương Bác

Phong trào bình dân học vụ 75 năm trước

Thời bình dân học vụ, lớp học I, T mọc lên khắp nơi, người biết chữ làm giáo viên không lương, người dân đi học để thoát cảnh không thể viết tên mình.

Ngày 2/9/1945, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, cùng lúc đối mặt với nạn đói, nạn dốt và nạn ngoại xâm. Thống kê thời kỳ đó, trong 100 người thì có 3 trẻ em từ 8 đến 16 tuổi đi học và 2 người lớn biết chữ, còn 95 người thất học. Có những làng không một người nào biết chữ.

Trong buổi họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra sáu việc cấp bách, chống nạn mù chữ xếp thứ hai, chỉ sau nạn đói. Bác nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ".

Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành liền ba sắc lệnh số 17, 19 và 20. Theo đó, Nha Bình dân học vụ được ra đời nằm trong Bộ Quốc gia Giáo dục, hạn trong 6 tháng làng và thị trấn nào cũng phải có "ít ra là một lớp bình dân" và cưỡng bách học chữ quốc ngữ trên toàn quốc.

Hồ Chủ tịch ra bản hiệu triệu đồng bào tham gia chống nạn mù chữ, khuyên người chưa biết chữ phải thi đua đi học, những người đã biết phải thi đua dạy học; kêu gọi mọi người, kẻ giúp của, người giúp công để tiêu diệt giặc dốt.

Nhân dân khu phố Hà Trung (Hà Nội) cổ động phong trào diệt giặc dốt ngày 6/12/1945. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
 

Nhân dân khu phố Hà Trung (Hà Nội) cổ động phong trào diệt giặc dốt ngày 6/12/1945. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Ra đời giữa lúc khó khăn bủa vây, phong trào bình dân học vụ gặp nhiều vấn đề nan giải, trong đó hai điều kiện cốt yếu là người và tiền đều thiếu. Theo Việt - Nam diệt giặc dốt năm 1951 của NXB Bình dân học vụ, Việt Nam cần hơn 100.000 người từ chỉ huy đến nhân viên, giáo viên. Nếu phải trả lương cho cán bộ, một năm có thể lên tới ngót 200 triệu đồng, chưa kể tiền in sách, mua học phẩm. Nhưng khi đó ngân sách dành cho bình dân học vụ chỉ 2 triệu đồng.

Tình thế ấy buộc bình dân học vụ phải theo phương pháp vận động cách mạng là "của dân, do dân, vì dân". Cán bộ cấp chỉ huy có người làm không lương, người dạy cũng không lấy lương. Để tiết kiệm tiền mua học phẩm, Chính phủ ra lệnh các công sở thu nhặt giấy cũ phát cho người nghèo để viết vào chỗ bỏ trắng; nếu không đủ thì dùng phấn, than, gạch, que thay bút mực; lá chuối, quạt nan, mo nang thay giấy.

Nha Bình dân học vụ liên tiếp tổ chức các lớp huấn luyện. Khóa đầu tiên mang tên "Hồ Chí Minh", khai mạc ở Hà Nội sau đúng một tháng thành lập Nha, kéo dài 10 ngày. Tiếp đó là khóa "Phan Thanh" ở Huế vào tháng 11, đặt nền móng bình dân học vụ ở Trung Bộ. Đến tháng 7/1946, khóa huấn luyện khác mang tên "Đoàn kết" dành cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Riêng miền Nam, sau khi Nha Bình dân học vụ thành lập được nửa tháng thì thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nên dù cử một số cán bộ vào gây dựng cơ sở, phong trào ở đây không duy trì mạnh mẽ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự khai mạc lớp huấn luyện cán bộ bình dân học vụ (khóa Hồ Chí Minh) tại Hà Nội ngày 8/10/1945. Ảnh: Sách Bác Hồ với giáo dục.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự khai mạc lớp huấn luyện cán bộ bình dân học vụ (khóa Hồ Chí Minh) tại Hà Nội ngày 8/10/1945. Ảnh: Sách Bác Hồ với giáo dục.

Tất cả lực lượng bình dân học vụ đổ dồn vào trừ nạn mù chữ. Họ dùng khẩu hiệu viết, kẻ, dán ở từng nhà, trên mặt đường, thân cây; hô trong các buổi phát thanh, đám rước đuốc, diễu hành để tuyên truyền. Nhiều người cảm phục nên bỏ tiền mua giấy bút cho học viên, người bỏ công đi dạy.

Chỉ sau 3 tháng, hàng trăm "lớp học i, tờ" (hai chữ trong bài đầu tiên) mở ra từ thành thị đến thôn quê, rừng núi. Giáo viên đủ các giới, hạng tuổi. Không có lương bổng, họ vẫn vừa dạy học, vừa làm cổ động học viên, xây dựng trường, tìm kiếm học phẩm.

Có những phụ nữ vừa cho con bú vừa học, những cụ già đầu tóc bạc phơ vẫn đến lớp. Có người phải đốt đuốc đi 2-3 cây số xuyên rừng, lội suối đến lớp học. Nhiều người khuyết tật cũng không chịu mù chữ, trong đó có chị Huỳnh Thị Chính, 17 tuổi, ở Liên khu 5, cụt cả hai tay, phải buộc bút vào cánh tay tập viết.

Tuy nhiên, vẫn còn những người vì sinh kế hoặc ngại ngùng mà chưa đi học. Nha Bình dân học vụ phải tổ chức mít tinh, ca kịch, triển lãm để lồng ghép giới thiệu lợi ích của sự học, chứng minh học chữ quốc ngữ "dễ, chóng biết và vui vẻ". Các đoàn cổ động dùng những câu ca dao dí dỏm để tuyên truyền, như: "Lấy chồng biết chữ là tiên/ Lấy chồng mù chữ là duyên con bò".

Ở một số nơi, trạm kiểm soát chữ được lập ra, ai muốn qua phải đọc được chữ, còn không thì được mời vào lớp bên cạnh để giáo viên dạy học thử. Ở nhiều con đường, cổng chợ, cán bộ bình dân học vụ dựng một cổng có hai cửa. Một cửa cao rộng để người biết chữ đi qua, một cửa thấp hẹp để ai mù chữ phải bò qua. Dần dần, học viên đến lớp ngày một đông.

Phong trào bình dân học vụ duy trì ngay cả khi thực dân Pháp quay lại xâm lược. Dựa trên tình hình thực tế, có lớp lưu động cho chị em đi làm ruộng; có lớp cho đồng bào tản cư trong các lán bí mật; có lớp học lộ thiên ở bến đò, cổng chợ; lớp học ở các chợ Hôm, Đồng Xuân (Hà Nội), Sắt (Hải Phòng), Vinh (Nghệ An) cho người buôn bán; lớp ở vùng tạm bị chiếm. Lớp học mở 1-2 tiếng mỗi ngày tùy theo sự thuận tiện của học viên và hoàn cảnh địa phương.

Thay vì cách học cổ truyền là "đánh vần từng chữ", dạy chữ cái theo thứ tự a, b, c rồi vần bằng, vần trắc, bình dân học vụ tiếp nối Hội Truyền bá quốc ngữ, sử dụng phương pháp "đọc lên thành tiếng". Những chữ cái và vần được sửa đổi là bật lên thành tiếng một cách hợp lý. Người dạy sáng tác những câu hát, ví von để người học dễ nhớ và nhớ lâu, như: "I, T giống móc cả hai/ I ngắn có chấm, (t) tờ dài có ngang". Nha Bình dân học vụ in hàng chục nghìn cuốn sách tóm tắt phương pháp giảng dạy để phổ biến cho bất cứ ai biết chữ và muốn dạy lại đồng bào.

Các bà, các mẹ ở tỉnh Sa đéc (khu vực Đồng Tháp ngày nay) đi học chữ trong kháng chiến chống pháp. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Các bà, các mẹ ở tỉnh Sa Đéc (khu vực Đồng Tháp ngày nay) đi học chữ trong kháng chiến chống pháp. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Theo sách Việt Nam chống nạn thất học, NXB Giáo dục năm 1980, với cách làm trên, chỉ trong một năm (8/1945-8/1946), phong trào bình dân học vụ đã xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người, phát triển được gần 96.000 giáo viên, mở được gần 75.000 lớp học. Sau 5 năm (đến 30/6/1950), gần 12,2 triệu người biết chữ. 10 tỉnh với 80 huyện, hơn 1.400 xã và 7.200 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Số người mù chữ còn lại tập trung ở miền núi, vùng bị địch chiếm như Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ.

Từ năm 1951, phong trào bình dân học vụ tiếp tục xóa nạn mù chữ và bước đầu tổ chức các lớp bổ túc văn hóa. Sau năm 1954, việc thanh toán nạn mù chữ được đẩy mạnh. Kết quả cuối tháng 12/1958, vùng đồng bằng và trung du miền Bắc đã căn bản xóa xong nạn mù chữ. 93,4% người dân từ 12 đến 50 tuổi đã biết đọc, biết viết. Với miền núi, đến năm 1965 thì hoàn thành xóa nạn mù chữ.

Tại miền Nam, đến năm 1975, 30% người dân vẫn mù chữ. Trong Chỉ thị 221 ngày 17/6/1975, Ban Bí thư Trung ương Đảng nhấn mạnh: "Trước mắt, phải coi đây (xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa) là nhiệm vụ cấp thiết số một". Trong thư gửi giáo viên và học sinh nhân dịp năm học mới năm 1976, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng lưu ý "miền Nam phải tập trung sức nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa cho cán bộ và thanh niên công nông". Hai năm sau đó, cuối tháng 2/1978, 21 tỉnh thành miền Nam cơ bản xóa mù chữ.

Từng tham gia dạy bình dân học vụ năm 1955-1956, bà Nguyễn Thị Côi, 78 tuổi, nguyên Hiệu trưởng trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội, đánh giá phong trào bình dân học vụ là "ánh sáng" mở ra hiểu biết cho người dân, từ đó dân trí được nâng cao, đất nước phát triển. Phong trào cũng để lại nhiều bài học có giá trị đến bây giờ. "Khi đó, tôi chỉ là đứa trẻ 14 tuổi đi dạy chữ cho các cô, các bác mà rất nhiệt huyết. Thầy cô bình dân học vụ ai cũng tận tình, sáng tạo, linh hoạt, điều mà không phải giáo viên nào thời nay cũng có", bà Côi nói.

Bình dân học vụ còn cho thấy sự quan trọng của việc học tập suốt đời, học nữa học mãi. Năm 1994, bên cạnh công tác tại trường, bà Côi đi dạy những trẻ em lang thang từ các tỉnh về Hà Nội. Sau khi nghỉ hưu năm 1998, bà tiếp tục mở lớp linh hoạt xóa mù, dạy chữ cho những trẻ tự kỷ, thiểu năng trí tuệ. Lớp học này còn duy trì đến ngày này.

Ông Nguyễn Phong Niên, nguyên Ủy viên thư ký Ủy ban Quốc gia Chống nạn mù chữ, thầy giáo trong phong trào bình dân học vụ những năm 1946-1948, đánh giá bình dân học vụ là phong trào quần chúng sáng tạo, linh hoạt, là nền tảng của giáo dục thường xuyên và là ví dụ điển hình cho việc học tập suốt đời mà ngày nay mọi người vẫn nhắc nhở nhau.

"Bác Hồ nói rất đúng rằng Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Ngay cả có nhiều trí thức giỏi mà toàn dân yếu thì cũng không được bởi không thể lấy một đội ngũ giỏi ở trên để thay thế quần chúng cực đông ở dưới được. Việc mở ra phong trào giúp toàn dân biết chữ như bình dân học vụ là đúng đắn và cần thiết, để lại nhiều bài học đến tận bây giờ", ông Niên khẳng định.

Dương Tâm/vnexpress.net